Chất lượng vật tư nông nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng với nền sản xuất nông nghiệp nước ta. Trong những năm qua, quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp luôn là vấn đề “nóng” không chỉ ngoài xã hội mà cả trên nghị trường Quốc hội.
Vai trò của chất lượng vật tư nông nghiệp
Chất lượng vật tư nông nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến năng suất mùa vụ, tác động tiêu cực đến đời sống người nông dân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của chúng ta và đặc biệt là sức khỏe người tiêu dùng vì phần lớn sản phẩm nông nghiệp là thực phẩm hoặc nguyên liệu của ngành chế biến thực phẩm, “đầu vào” của con người trong cuộc sống hàng ngày.
Hơn nữa, trong sản xuất nông nghiệp thì vật tư nông nghiệp thường chiếm phần lớn trong cơ cấu giá thành sản xuất. Chỉ riêng giá trị ngành hàng phân bón (gồm cả nhập khẩu và sản xuất phân bón trong nước) lên tới 5 tỷ USD/năm. Ngành chế biến thức ăn chăn nuôi (gồm cả thức ăn thủy sản) có sản lượng lên tới 25 triệu tấn/năm. Đó là chưa kể thuốc BVTV, giống cây trồng, vật nuôi, giống thủy sản… Điểm qua đó cho thấy giá trị các mặt hàng vật tư nông nghiệp rất lớn, lại là “đầu vào” của sản xuất. Chất lượng vật tư nông nghiệp có tốt, giá cả vừa phải, được quản lý chặt chẽ, khoa học thì nông dân, doanh nghiệp mới có thể sản xuất ra các nông sản đạt chất lượng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, có giá cả cạnh tranh và đứng được trên thị trường.
Vì vậy quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp còn phản ảnh trình độ sản xuất nông nghiệp của mỗi quốc gia. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi chất lượng vật tư nông nghiệp luôn được lãnh đạo ngành NN- PTNT hết sức quan tâm. Kiểm soát chất lượng vật tư nông nghiệp đòi hỏi phải có giải pháp tổng thể từ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ đến hệ thống thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm đủ mạnh và hệ thống kiểm nghiệm chất lượng tin cậy.
Mà muốn có hệ thống kiểm nghiệm đạt độ tin cậy cao thì ngoài việc đầu tư các thiết bị thử nghiệm hiện đại, đòi hỏi phải có cơ chế, chế độ thù lao cho kiểm nghiệm viên một cách tương xứng để đảm bảo kiểm nghiệm viên chuyên tâm với công việc của mình, khách quan với các đơn hàng trên tinh thần “pháp luật bất vị thân” thì mới có thể có kết quả thử nghiệm tin cậy.
Vì sao cần xã hội hóa?
Hiện nay, các đơn vị sự nghiệp Nhà nước đang gặp phải cả hai khó khăn này. Thứ nhất, chủ trương hạn chế đầu tư công của Chính phủ đã làm suy giảm khả năng đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp, trong khi các thiết bị thử nghiệm đều nhanh chóng bị lạc hậu, thông thường thời gian khấu hao kỹ thuật của các thiết bị chỉ vài ba năm là đã cần thay thế bằng thiết bị đời mới. Điều này đòi hỏi các phòng thử nghiệm phải có cơ chế khấu hao nhanh để đảm bảo tái đầu tư. Muốn vậy, phí thử nghiệm buộc phải theo cơ chế giá cả chung tiệm cận giá thị trường thì các phòng thử nghiệm mới có cơ hội tái đầu tư nhanh.
Thứ hai, cơ chế lương, thưởng cho các đơn vị sự nghiệp trong thời gian vừa qua khó có thể khuyến khích người lao động yên tâm làm việc, chứ đừng nói đến khả năng thu hút người tài. Hiện nay, thu nhập của người lao động phải đảm bảo tối thiểu 9-10 triệu/tháng thì mới giúp họ yên tâm lao động, trau đồi và cập nhật kiến thức, tích cực làm việc với thái độ công tâm, khách quan nhất.
Do vậy, chủ trương chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công thành các doanh nghiệp là hoàn toàn chính xác và kịp thời. Tuy nhiên, các đơn vị sự nghiệp từ chỗ đang hưởng cơ chế bao cấp nay chuyển sang hạch toán thì không phải bất kỳ tổ chức nào cũng có thể hòa nhập được ngay với cơ chế thị trường và thậm chí dẫn đến phá sản. Những vướng mắc xuất phát từ cơ chế chuyển đổi chậm chạp, thiếu chính sách sử dụng người tài, tư duy dựa dẫm vào “chiếc bánh” ngân sách trong khi nguồn lực đầu tư từ ngân sách ngày càng mỏng dần.
Một chủ trương khác là xã hội hóa hoạt động này đang được xã hội hết sức quan tâm. Từ 2010, Bộ NN- PTNT đã bắt đầu thực hiện xã hội hóa hoạt động thử nghiệm, huy động năng lực thử nghiệm từ các Bộ, ngành khác và cả các tổ chức thử nghiệm tư nhân tham gia vào hoạt động thử nghiệm chất lượng phân bón.
Giai đoạn đầu đã thể hiện tính ưu việt của chủ trương này. Các phòng thử nghiệm tư nhân đã chứng tỏ thế mạnh riêng của mình như năng động, có cơ chế thu hút người tài đồng thời cung cấp dịch vụ thử nghiệm đúng với nghĩa dịch vụ, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.
Theo nongnghiep.vn